Tóm tắt chương 1 cuốn “The Ethics of Money Production” của Jörg Guido Hülsmann – giải thích các loại tiền và sự xuất hiện của chúng trong lịch sử loài người. Bạn có thể đọc bản PDF full tại đây
Phân công lao động không có sự xuất hiện của Tiền
Một quy luật cơ bản của kinh tế học là hợp tác sản xuất sẽ đem lại nhiều giá trị và lợi nhuận hơn sản xuất riêng lẻ. Các cá nhân khi làm việc tách biệt với nhau sẽ tạo ra ít giá trị hàng hóa và dịch vụ hơn nếu họ phối hợp với nhau.
Nếu thế giới không có tiền, mọi người phải sử dụng sản phẩm của họ để đổi chác. Trong một thế giới như vậy, khối lượng trao đổi – hay một mặt nào đó, thể hiện mức độ hợp tác của xã hội bị giới hạn do gặp phải vấn đề về sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa các mong muốn.
Trao đổi hàng đổi hàng sẽ chỉ diễn ra nếu mỗi đối tác thương mại có nhu cầu cá nhân trực tiếp với hàng hóa mà họ nhận được thông qua cuộc trao đổi. Nhưng kể cả vậy, hàng hóa thường quá cồng kềnh và không thể chia nhỏ để đáp ứng nhu cầu.
Giả sử một người thợ mộc đang cố đổi lấy một cân bột mỳ với một cái ghế. Bản thân cái ghế đã có giá trị hơn 1 cân bột mỳ. Làm thế nào cuộc trao đổi có thể diễn ra? Tách cái ghế thành 10 phần, và nó sẽ không có giá trị bằng một phần mười cái ghế ban đầu nữa. Vì vậy, việc “chia nhỏ” cái ghế đã phá hủy toàn bộ giá trị của nó. Vì vậy trao đổi này sẽ không diễn ra.
Những vấn đề này có thể được giảm bớt thông qua trao đổi gián tiếp. Trong ví dụ trên, người thợ mộc có thể đổi chiếc ghế của mình lấy 20 ounce bạc, và sau đó dùng ¼ ounce bạc để mua 1 cân bột mỳ. Kết quả là nhu cầu về bột của người thợ mộc giờ đây đã được thỏa mãn thông qua trao đổi bổ sung và sử dụng phương tiện trao đổi .
Do đó, trao đổi gián tiếp cung cấp cho người thợ mộc thêm cơ hội hợp tác với những người khác. Nó góp phần vào sự gia tăng về vật chất và tinh thần của mỗi người.
Hàng hóa biến thành tiền
Làm thế nào để một hàng hóa như vàng, bạc trở thành tiền? Điều này xảy ra thông qua một quá trình mà trong đó ngày càng nhiều người tham gia thị trường, mỗi người lại tự lựa chọn vàng và bạc là vật trao đổi gián tiếp của họ. Việc lựa chọn vàng, bạc và đồng trong lịch sử không được thực hiện thông qua một hợp đồng hay quy ước xã hội nào đó. Thay vào đó, nó là kết quả của sự hội tụ tự phát của nhiều lựa chọn cá nhân , một sự hội tụ được dẫn đầu bởi các đặc tính vật lý của kim loại quý.
Để một hàng hóa được sử dụng một cách tự phát như một phương tiện trao đổi, bản thân nó phải có các dịch vụ phi tiền tệ (để sử dụng cho tiêu dùng và sản xuất của chính nó) và được trao đổi một cách rộng rãi. Giá ban đầu được trả cho việc sử dụng hàng hóa cho phép người mua ước tính được giá tương lai mà tại đó người ta có thể mong đợi bán lại nó với giá hợp lí. Về cơ bản, giá trả cho việc sử dụng hàng hóa kia vào mục đích phi tiền tệ là cơ sở cho việc sử dụng nó trong trao đổi gián tiếp.
Sự xuất hiện tự phát của một phương tiện trao đổi hầu như không thể xảy ra bất cứ khi nào thiếu dữ liệu giá lịch sử. Mặt khác, khi nó tồn tại, thì có thể nảy sinh nhu cầu tiền tệ (mong muốn sử dụng nó như tiền) đối với hàng hóa được đề cập. Sau đó, nhu cầu tiền tệ bổ sung thêm vào nhu cầu phi tiền tệ của hàng hóa, sao cho giá cả của hàng hóa tiền có thành phần tiền tệ và thành phần phi tiền tệ . Các loại tiền tệ trong lích sử có giá trị từ việc sử dụng chúng trong tiêu dùng.
Tiền tự nhiên (Natural Monies)
Khi một phương tiện trao đổi được chấp nhận trong xã hội, nó được gọi là “tiền”. Tiền tự nhiên – là loại tiền được sử dụng bởi sự hợp tác tự nguyện của những người trong cộng đồng , xã hội.
Tiền tự nhiên có hai đặc điểm:
- Có giá trị trước khi sử dụng tiền tệ và
- Có các đặc tính của một phương tiện trao đổi.
Chúng được gọi là tiền tự nhiên, không phải vì các đặc tính của chúng, mà bởi vì những người tự do lựa chọn sử dụng chúng một cách tự nhiên. Vì vậy, người ta không thể dự đoán hay nói trước đâu là tiền tự nhiên của xã hội. Các duy nhất để tìm ra được là để mọi người tự do lựa chọn phương tiện trao đổi tốt nhất trong số các lựa chọn thay thế có sẵn.
Vàng, bạc, dồng là tiền tự nhiên trong vài nghìn năm, của nhiều xã hội loài người. Các chi phí sản xuất là một phần lý do tại sao những kim loại này lại tốt hơn tiền giấy. Bởi vì quá trình khai thác tốn kém nên không dễ dàng để tạo ra chúng cấp số nhân theo ý muốn.
Tiền đúc (Coinage)
Các kim loại quý bên trên vốn đã là “tiền” từ trước khi tiền đúc được phát mình. Ngay cả ở dạng vật lý nguyên thủy, các đặc tính của chúng vẫn vượt trội hơn các lựa chọn thay thế. Tuy nhiên, tiền đúc đã tạo thêm sự tiện lợi và thuận tiện. điều này đã góp phần vào sự phổ biến của trao đổi tiền tệ.
Tiền đúc cho phép trao đổi các kim loại quý mà không cần thông qua quý trình cân đo và nấu chảy chúng để xác định độ tinh khiết. Quá trình này được thực hiện 1 cách tập trung trước đó để gia tăng hiệu suất và tiết kiệm chi phí.
Đặt niềm tin vào người đúc tiền
Tiền đúc phụ thuộc hoàn toàn vào độ tin cậy của người đúc tiền. Nếu những người tham gia thị trường trao đổi không thể tin tưởng họ thì họ thà mất chi phí cho việc cân kim loại và xác định hàm lượng còn hơn là sử dụng một “chứng chỉ” từ một người không đáng tin.
Ngược lại, khi một đồng tiền đúc được gia tang độ tin cậy – thì đồng tiền đúc đó ssẽ có giá trị hơn bản thân kinh loại trong đồng tiền đó. Ví dụ, 1 đồng xu bạc 1 ounce được tin cậy có giá trị hơn 1 ounc bạc thỏi. Do đó, những người khai thác kim loại và đúc tiền sẽ thu được lợi nhuận từ sự chênh lệch này.
Bởi vì giá trị của “chứng chỉ” – tiền đúc phụ thuộc vào người đúc, tiền xu thường chỉ được sử dụng trong các khu vực địa lý hạn chế. Chỉ những ai biết đồng tiền này do ai đúc ra mới chấp nhận nó. Tất cả những người khác sẽ đòi được trả bằng vàng hoặc đồng tiền xu mà họ tin tưởng. Mặc dù vậy, không có nghĩa là phạm vi của từng loại tiền xu bị bó hẹp, trên thực tế, có nhiều loại tiền xu nổi tiến và được sử dụng rộng rãi xuyên suốt lịch sử loài người.
Niềm tin sụp đổ
Có nhiều ví dụ trong lịch sử về việc những người đúc tiền – chính phủ đã lạm dụng long tin của người dân. Trên thực tế, hầu như không có một chính phủ nào không lạm dụng khả năng đúc tiền độc quyền của mình. Người Hy Lạp và La Mã cổ đại, các hoàng từ công tước và hoàng đế thời trung cổ đã liều lịnh hạ thấp giá trị đồng xu của họ – khi biết rằng luật pháp có thể áp đặt giá trị cho các đồng xu của họ theo ý muốn của chính phủ.
Trước khi xuất hiện ngân hàng, sự suy yếu của tiền đúc (debasement – https://en.wikipedia.org/wiki/Debasement ) chính là một hình thái của lạm phát. Debasement là cách để thay đổi số lượng đồng xu được làm từ kim loại quý bằng cách giảm hàm lượng của kim loại quý trong nó. Vì thời xưa, người dân và những nhà tư tưởng lớn suy nghĩ rằng tiền đúc nên được giao cho nhà vua hoặc chính phủ, bởi họ là những nhà lãnh đạo tự nhiên của xã hội cũng như được nhiều người tin tưởng. Dù vậy, các nhà học thuật từ thời Trung Cổ đều biến rõ nhà vua thương xuyên lạm dụng sự tin tưởng này, bằng cách tạo ra một đồng xu 1 ounce bạc nhưng thực tế chỉ chưa nửa ounce, và bỏ túi nửa ounce còn lại.
Lạm phát và Luật pháp
Rất lâu trước thời đại của ngân hàng, Nicholas Oresme nhấn mạnh khía cạnh lạm phát được bảo vệ bởi luật pháp
Lạm phát là sử mở rộng số lượng danh nghĩa của bất kỳ phương tiện trao đổi nào ngoài số lượng lẽ ra được sản xuất trên thị trường tự do. Luật phát đã loại bỏ tất cả các trở ngại kỹ thuật đối với sự lạm phát vô hạn của tiền xu. Bất kỳ đồng xu nào, dù bị giảm giá bao nhiêu đi chăng nữa cũng vẫn được chấp nhận thanh toán.
Lạm phát mang lại lợi ích cho chính phủ kiểm soát nó, không chỉ gây thiệt hại cho người dân, nó còn ảnh hưởng đến các tổ chức bên dưới chính phủ.
Cạnh tranh đúc tiền
Khoa học kinh tế đã cho chúng ta thấy sự cạnh tranh trong việc đúc tiền là cách tốt nhất để duy trì độ tin cậy của tiền xu. Không có lý do kinh tế nào không cho phép công dân tham gia vào việc đúc tiền và cung cấp loại tiền của riêng mình.
Một tổ chức tư nhân cũng có thể lạm dụng sự tin tưởng của khách hàng nhưng hình phạt dành cho hành động đó sẽ là khách hàng sẽ rời bỏ ngay lập tức. Họ có thể sẽ bắt đầu sử dụng các đồng tiền khác do các tổ chức/ người khác mà có lý do để họ tin tưởng hơn. Trên thị trường tự do, sự chuyển đổi này có thể diễn ra thuận lợi và nhanh chóng: môt người khi không còn tin vào người khai thác/đúc tiền A chỉ cần ngừng sử dụng đồng tiền của người A và bắt đầu sử dụng đồng tiền của người khai thác/đúc tiền B, giống như việc rời bỏ cộng đồng A và gia nhập cộng đồng B.
Mặc dù cạnh tranh đúc tiền không phải là giải pháp có thể giải quyết hết các bất cập. Lạm dùng luôn có thể xảy ra và trong nhiều trường hợp hợp ko dễ gì để giải quyết. Ưu điểm có nó là giảm thiểu phạm vi lạm dụng. Điều tuyệt vời là nó liên quan đến toàn bộ cộng đồng những người sử dụng tiền, không chỉ một số người giữ chức vụ được bổ nhiệm hoặc tự bổ nhiểm. Theo một cách nào đó, quá trình cạnh tranh này cũng đáp ứng tiên đề của Oresme rằng : toàn bộ cộng đồng người dùng quyết định về khả năng đúc tiền.
Tiền tín dụng (Credit Money)
Một xã hội tư do sẽ chứa nhiều loại tiền khác nhau, tất cả đều là tiện tự nhiên.
Tuy nhiên xuất hiện một loại tiền kahcs mà không có giá trị từ tiêu dùng. Đó là tiền tín dụng.
Tiền tín dụng ra đời khi các công cụ tài chính được sử dụng trong trao đổi gián tiếp.
Giả sử Ben cho vay 10 ounce bạc cho Mike trong một năm, đổi lại Mike sẽ đưa cho Ben 1 IOU. Nếu IOU là một tờ giấy có dòng chữ “ Tôi nợ người mang tờ tiền này 1 số tiền là 10 z bạc. Phải trả vào ngày 1 tháng 1 năm 2021.” Sau đó, Ben có thể cố gắng sử dụng tờ tiền này như 1 phương tiện trao đổi. Điều này có thể xyả ra nếu người sẽ nhận tòw tiền cũng tin tưởng vào tuyên bố của Mike để trả lại như đã hứa. Nếu danh tiếng của Mike đủ tốt, thì có khả năng những người ngày sẽ chấp nhận tờ giấy kia như một khoản thanh toán cho hàng hóa dịch vụ của họ. IOU của Mike trở thành tiền tín dụng.
Tiền tín dụng nhận được giá trị từ việc sẽ được mua lại trong tương lai bằng hàng hóa. Về mặt này, nó hoàn toàn khác với tiền giấy, vốn đã được định giá. Tiền tín dụng sẽ không đạt được sự luân chuyển như các đồng tiền tự nhiên. Lý do là vì nó có nguy cơ vỡ nợ. Trao đổi tiền mặt đem lại quyền kiểm soát ngay lập tức đối, khác với IOU, công ty phát hành ra IOU đó có thể bị phá sản, trong trường hợp đó IOU chỉ là một tờ giấy không hơn
Tiền cưỡng chế ( Forced Money)
Bất cứ nơi nào mọi người không được tự do lựa chọn loại tiền mình muốn sử dụng mà buộc phải sử dụng một hoặc nhiều loại tiền – đó gọi là tiền cưỡng chế.
Không có thời kỳ nào của lịch sử loài người, tiền giấy xuất hiện như một loại tiền tự nhiên. Các duy nhất để đưa tiền giấy vào lưu thông là áp đặt nghĩa vụ sử dụng chúng lên công dân.
Trong một thị trường tự do thực sự, tiền giấy sẽ không thể chịu được sự cạnh tranh của các loại tiền hàng hóa. Những người tham gia thị trường có tầm nhìn và thận trọng sẽ loại bỏ tiền giấy của họ trước, và những người khác sẽ làm theo dẫn đến sự sụp đổ của tiền giấy. Điều này có thể diễn ra trong vài ngày, thậm chí vài thập kỷ nhưng luôn có 1 kết quả tất yếu là tiền giấy sẽ bị loại bỏ.